Thế hệ mới của máy chụp cắt lớp vi tính võng mạc (Optical coherence tomography angiography) OCT-A SPECTRALIS® Heidelberg Engineering, của hãng Heidelberg, nước Germany là một trong những nước sản xuất công nghệ kĩ thuật tiên tiến trên thế giới. OCT SPECTRALIS® là một phương thức hình ảnh có thể được áp dụng trong nhãn khoa để cung cấp hình ảnh chi tiết về sự tưới máu của mạng lưới mạch máu trong mắt.
https://www.heidelbergengineering.com/
OCT-A SPECTRALIS® có thể chụp OCT bán phần sau, chụp ảnh đáy mắt và chụp OCT-A. So với hình ảnh dựa trên thuốc nhuộm hiện đại, chẳng hạn chụp mạch huỳnh quang thì OCT-A SPECTRALIS® là phương pháp không xâm lấn, tiết kiệm thời gian và cho phép kiểm tra mạch máu võng mạc ở chế độ 3D. Chỉ định chụp ảnh OCT/ OCT-A của điểm vàng (macular) và dây thần kinh thị giác để xác định bất kỳ dấu hiệu thoái hóa điểm vàng, lỗ điểm vàng, màng ngoài võng mạc, tân mạch võng mạc hay tân mạch hắc mạc.
OCT-A SPECTRALIS® là một kỹ thuật hình ảnh không xâm lấn có thể được sử dụng để cung cấp hình ảnh ba chiều về mạch máu được tưới máu của võng mạc và hắc mạc. Trái ngược với chụp cắt lớp vi tính võng mạc tiêu chuẩn OCT thì OCT-A SPECTRALIS® không chỉ phân tích cường độ ánh sáng phản xạ mà còn cả những thay đổi theo thời gian của tín hiệu OCT. Dựa trên các hình ảnh OCT lặp đi lặp lại (B-scan) từ cùng một vị trí của võng mạc, có thể tách các thay đổi tín hiệu tạm thời gây ra bởi các hạt chuyển động. Do đó, hình ảnh tương phản giữa các mạch được tưới mái và các mô tĩnh xung quanh có thể được tạo ra như hình 1,2.
Ví dụ về các trường hợp lâm sàng nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của công nghệ OCT-A trong nhãn khoa và mối liên hệ của OCT-A SPECTRALIS® với chụp mạch máu dựa trên thuốc nhuộm võng mạc (hình1,2).
Hình ảnh 1: SD-OCT và OCTA (Heidelberg Engineering, Heidelberg, Đức) của mắt trái.
a, b SDOCT cho thấy tổn thương tăng phản xạ cạnh nhãn cầu ở võng mạc bên ngoài được bao quanh bởi dịch trong võng mạc và bong biểu mô sắc tố drusenoid nhỏ.
c SD-OCT thực hiện 2 tháng trước cho thấy một nhỏ hơn mật độ tăng phản xạ không có dịch trong võng mạc (mũi tên trắng).
d OCTA B-scan.
e OCTA, sau khi hiệu chỉnh tạo tác chuyển động và hình chiếu, cho thấy một mạch sáng nhỏ trong phiến phức hợp mạch máu sâu (vòng tròn màu vàng).
Hình ảnh 2: SD-OCT và OCTA (Heidelberg Engineering, Heidelberg, Đức) của mắt trái.
a. SD-OCT cho thấy một bong biểu mô sắc tố huyết thanh phẳng (PED) với biểu mô sắc tố võng mạc khu trú (RPE) sự gián đoạn và các tiêu điểm tăng phản xạ trong võng mạc phủ lên PED với chất lỏng xung quanh.
b SD-OCT được thực hiện 2 tháng trước cho thấy cùng một tổn thương tăng phản xạ và PED nông hơn (mũi tên màu cam).
hình ảnh c – f SD-OCT và OCTA được thực hiện sau khi điều trị bằng tiêm nội nhãn bevacizumab.
c SD-OCT hiển thị hồi quy của PED, độ phân giải của chất lỏng trong võng mạc và độ phản xạ siêu âm nhỏ hơn cũng được hiển thị trên OCTA B-scan (d) RPE và teo vùng ellipsoid phát triển ở cấp độ của tổn thương tân mạch trước đó.
e, f Điều trị sau nội nhãn đối mặt với OCTA sau khi chỉnh sửa tạo tác chuyển động và hình chiếu.
Hãy đến với đội ngũ bác sỹ tại Bệnh viện Mắt Hà Đông để được phát hiện, điều trị và theo dõi các bệnh lý võng mạc, hắc mạc bằng công nghệ chẩn đoán hình ảnh tiên tiến.
Tham khảo
[1] Bressler NM. Age-related macular degeneration is the leading cause of blindness. JAMA. 2004 Apr;291(15):1900–1.
[2]Miere A, Querques G, Semoun O, El Ameen A, Capuano V, Souied EH. Optical coherence tomography angiography in early type 3 neovascularization. Retina. 2015 Nov;35(11):2236–41.
[3] Yannuzzi LA, Negrão S, Iida T, Carvalho C, Rodriguez-Coleman H, Slakter J, et al. Retinal angiomatous proliferation in age-related macular degeneration. Retina. 2001;21(5):416–34.
Ths. Bs. Trần Thị Kim Uyên